Dấu Hiệu Bé Bị Rối Loạn Phổ Tự Kỷ

Dấu Hiệu Bé Bị Rối Loạn Phổ Tự Kỷ

Đôi khi, cần sử dụng vật lý trị liệu và liệu pháp chuyên môn

Đôi khi, cần sử dụng vật lý trị liệu và liệu pháp chuyên môn

Rối loạn phổ tự kỷ (Autism spectrum disorder) là gì?

Rối loạn phổ tự kỷ (Autism spectrum disorder) là tình trạng liên quan đến sự phát triển của não bộ, ảnh hưởng đến cách một người nhận thức và trao đổi với người khác, ảnh hưởng đến quá trình tương tác và giao tiếp xã hội. Rối loạn này bao gồm các kiểu hành vi hạn chế và lặp đi lặp lại. Thuật ngữ “phổ” trong rối loạn phổ tự kỷ đề cập đến nhiều triệu chứng và mức độ nghiêm trọng của bệnh. [2]

Rối loạn phổ tự kỷ bắt đầu từ thời thơ ấu. Trẻ em thường biểu hiện các triệu chứng tự kỷ trong năm đầu tiên. Một số ít trẻ phát triển bình thường trong năm này. Sau đó trải qua giai đoạn thoái triển trong khoảng từ 18 – 24 tháng tuổi trước khi các triệu chứng tự kỷ biểu hiện rõ.

Dù không có cách chữa chứng rối loạn phổ tự kỷ. Tuy nhiên, việc phát hiện và điều trị sớm, chuyên sâu có thể giúp nhiều trẻ em hòa nhập với cuộc sống.

Giao tiếp và tương tác xã hội

Trẻ em hoặc người lớn mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có thể gặp vấn đề về kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Các triệu chứng gồm:

Các mức độ rối loạn phổ tự kỷ (ASD)

Các mức độ của rối loạn phổ tự kỷ (ASD) được phân loại dựa trên mức độ hỗ trợ mà người bệnh yêu cầu. Gồm 3 cấp độ [3]:

Một số trẻ có dấu hiệu rối loạn phổ tự kỷ ngay từ nhỏ, chẳng hạn như giảm giao tiếp bằng mắt, không phản ứng khi được gọi tên hoặc thờ ơ với người khác. Những đứa trẻ khác có thể phát triển bình thường trong vài tháng hoặc vài năm đầu đời nhưng sau đó đột nhiên khép mình lại, hung hăng. Các dấu hiệu thường thấy khi trẻ 2 tuổi. Trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có thể có một kiểu hành vi và mức độ nghiêm trọng riêng, biểu hiện từ thấp đến cao.

Biểu hiện của các triệu chứng khác nhau ở mỗi trẻ nên đôi khi rất khó xác định mức độ nghiêm trọng. Chẩn đoán thường dựa trên mức độ suy giảm và ảnh hưởng của bệnh đến khả năng hoạt động. Dưới đây là các dấu hiệu phổ biến ở người mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ.

Điều trị bệnh rối loạn phổ tự kỷ thế nào?

Trẻ được chẩn đoán mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ, bác sĩ tâm thần hoặc chuyên gia tâm lý sẽ lên phác đồ điều trị phù hợp với từng giai đoạn của con. Các lựa chọn điều trị gồm:

Thuốc chỉ giúp kiểm soát các triệu chứng. Ví dụ, một số loại thuốc được kê đơn khi con bạn hiếu động quá mức. Thuốc chống loạn thần đôi khi được sử dụng để điều trị các vấn đề nghiêm trọng về hành vi. Ngoài ra, thuốc chống trầm cảm có thể được kê đơn để điều trị chứng lo âu. Một số loại thuốc và chất bổ sung có thể gây tác dụng phụ nguy hiểm, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi cho trẻ dùng.

Nguyên nhân rối loạn phổ tự kỷ và yếu tố rủi ro

Không tìm được nguyên nhân gây rối loạn phổ tự kỷ. Tuy nhiên, với sự phức tạp và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng, bệnh có thể do di truyền và yếu tố môi trường gây ra. Các nguyên nhân gồm [4]:

Với một số trẻ, rối loạn phổ tự kỷ có thể liên quan đến rối loạn di truyền, chẳng hạn như hội chứng Rett hoặc hội chứng X dễ gãy. Ở các trường hợp khác, những đột biến di truyền có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ.

Gia đình có con rối loạn phổ tự kỷ, đứa con khác cũng có nguy cơ cao mắc bệnh này. Ngoài ra, cha mẹ hoặc người thân của trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ có thể gặp phải những vấn đề nhỏ về kỹ năng giao tiếp hoặc biểu hiện một số triệu chứng của bệnh.

Có mối liên hệ giữa những đứa trẻ sinh ra từ cha mẹ lớn tuổi và chứng rối loạn phổ tự kỷ nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn để chứng minh điều này.

Một số loại thuốc, chẳng hạn như axit valproic và thalidomide khi dùng trong thời kỳ mang thai cũng khiến con sinh ra có nguy cơ cao mắc bệnh tự kỷ. [5]

Trẻ sinh ra trước 26 tuần tuổi có nguy cơ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ cao hơn trẻ bình thường.

Các bé trai có nguy cơ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ cao gấp 4 lần so với bé gái.

Trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ thường có một số dấu hiệu chậm phát triển trước 2 tuổi. Nếu phụ huynh lo lắng về sự phát triển của con mình hoặc nghi ngờ trẻ có thể mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ, hãy đến gặp bác sĩ để kiểm tra, tìm nguyên nhân và điều trị sớm. Bởi các triệu chứng liên quan đến rối loạn phổ tự kỷ có thể liên quan đến những rối loạn phát triển khác.

Các dấu hiệu rối loạn phổ tự kỷ thường xuất hiện sớm, biểu hiện qua sự chậm chạp về kỹ năng ngôn ngữ và tương tác xã hội. Bác sĩ sẽ đề nghị làm các kiểm tra để xác định xem trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ hay không. Các kiểm tra gồm:

Các dấu hiệu rối loạn phổ tự kỷ thường xuất hiện sớm, biểu hiện qua sự chậm chạp về kỹ năng ngôn ngữ và tương tác xã hội

Can thiệp hành vi, tâm lý và giáo dục

Nhiều chương trình giải quyết các khó khăn về xã hội, ngôn ngữ và hành vi liên quan đến chứng rối loạn phổ tự kỷ đã được triển khai. Một số chương trình tập trung vào việc làm giảm hành vi bất thường và dạy các kỹ năng mới. Các chương trình khác tập trung vào việc dạy trẻ cách hành động trong những tình huống xã hội hoặc giao tiếp với người khác.

Ngoài ra, phân tích hành vi ứng dụng (ABA) có thể giúp trẻ học các kỹ năng mới. Đồng thời, khái quát hóa các kỹ năng này trong nhiều tình huống, thông qua trao thưởng để tạo động lực cho con.

Trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ thường đáp ứng tốt với các chương trình giáo dục có cấu trúc chặt chẽ. Các chương trình được tổ chức gồm một nhóm chuyên gia và triển khai nhiều hoạt động khác nhau nhằm cải thiện kỹ năng xã hội, giao tiếp và hành vi. Trẻ mầm non được can thiệp hành vi chuyên sâu, cá nhân hóa thường có tiến triển tốt.

Các nhóm hỗ trợ giúp cha mẹ đối phó với những căng thẳng khi nuôi dạy trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ. Cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình có thể học cách chơi và tương tác với con theo những cách thúc đẩy kỹ năng tương tác xã hội, quản lý hành vi cũng như dạy kỹ năng sống và giao tiếp hàng ngày.

Rối loạn phổ tự kỷ có nguy hiểm không?

Rối loạn phổ tự kỷ không gây nguy hiểm cho người bệnh và người xung quanh một cách trực tiếp. Tuy nhiên, rối loạn này có thể gây khó khăn trong các hoạt động sống của người bệnh và gia đình họ. Mức độ và biểu hiện của rối loạn phổ tự kỷ có sự thay đổi tùy từng trường hợp.

Rối loạn phổ tự kỷ có chữa được không?

Không có cách chữa trị chứng rối loạn phổ tự kỷ. Cũng không có phương pháp điều trị chung nào phù hợp cho tất cả mọi người. Mục tiêu của việc điều trị là cải thiện khả năng giao tiếp, hoạt động của trẻ bằng cách giảm các triệu chứng rối loạn phổ tự kỷ, hỗ trợ sự phát triển và học tập. Can thiệp sớm trong những năm đầu đời có thể giúp trẻ học được các kỹ năng xã hội, giao tiếp và cải thiện hành vi của bản thân.

Phòng ngừa rối loạn rối loạn phổ tự kỷ

Không có cách nào để ngừa chứng rối loạn phổ tự kỷ. Tuy nhiên, vẫn có thể điều trị các triệu chứng của bệnh. Chẩn đoán và can thiệp sớm là biện pháp hữu hiệu để cải thiện hành vi, kỹ năng và phát triển ngôn ngữ.

Phụ huynh có con mắc rối loạn phổ tự kỷ nên [6]:

Khám rối loạn phổ tự kỷ ở đâu? Bệnh viện nào?

Liên hệ với bác sĩ tâm thần hoặc chuyên gia tâm lý khi con bạn có những biểu hiện của bệnh rối loạn phổ tự kỷ hoặc có những dấu hiệu bất thường về cách con chơi, học, nói hoặc hành động.

Khoa Khám bệnh, BVĐK Tâm Anh TP.HCM quy tụ đội ngũ bác sĩ, chuyên gia đầu ngành có trình độ chuyên môn cao, phong cách làm việc chuyên nghiệp, tận tình chu đáo, đảm bảo công tác khám, chẩn đoán, điều trị kịp thời và tư vấn chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho người bệnh. Đội ngũ nhân viên chăm sóc khách hàng thực hiện nhiệm vụ đón tiếp, chỉ dẫn, giới thiệu, cung cấp thông tin tư vấn về khám chữa bệnh, chính sách với người bệnh, người nhà trong suốt quá trình khám, chữa bệnh tại bệnh viện.

HỆ THỐNG BỆNH VIỆN ĐA KHOA TÂM ANH

Trên đây là những thông tin về rối loạn phổ tự kỷ (ASD) là gì? Các mức độ, nguyên nhân và dấu hiệu nhận biết. Khi trẻ có các triệu chứng kể trên, phụ huynh nên đưa con đến khám tại các cơ sở y tế uy tín, khoa tâm lý để các bác sĩ sớm can thiệp nhằm cải thiện, tăng khả năng hòa nhập cộng đồng và ngôn ngữ của con.

Tỉ lệ xuất hiện của chứng rối loạn phổ tự kỷ được ghi nhận khác nhau giữa các quốc gia và các nhóm người. Theo CDC Mỹ công bố năm 2020 thì ở Mỹ cứ 54 trẻ sinh ra sẽ có một trẻ mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (theo dữ liệu năm 2016). Ở Châu Á, rối loạn phổ tự kỷ vẫn chưa được nghiên cứu kĩ và nhiều như ở các quần thể người Châu Âu hay Bắc Mỹ và tần suất xuất hiện tự kỷ được báo cáo có sự khác biệt lớn giữa các quần thể. Theo ước tính, tự kỷ chiếm khoảng 1% quần thể. Ở Việt Nam, hiện chưa có số liệu thống kê chính xác tỉ lệ mắc tự kỷ trong cộng đồng là bao nhiêu.

Rối loạn phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum Disorder) thường được mọi người gọi là "tự kỷ", là một rối loạn bao gồm các biểu hiện lâm sàng đặc trưng với khả năng thiếu hụt về kỹ năng xã hội, các hành vi lặp lại, thiếu hụt hay thậm chí không có khả năng giao tiếp và ngôn ngữ. Ngoài các biểu hiện nêu trên, trẻ tự kỷ còn có thể có những biểu hiện lâm sàng khác như co giật, động kinh, rối loạn vị giác, âm thanh, giấc ngủ, tăng động giảm chú ý, có vấn đề về hệ tiêu hóa, thường xuyên lo lắng, bồn chồn...[1]

Bệnh tự kỷ là 1 trong 5 tiểu loại của nhóm bệnh Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD - Pervassive Development Disorders) hay còn được gọi là nhóm bệnh Rối loạn phổ tự kỷ (ASD - Autism Spectrum Disorder). [2]

Ca bệnh tự kỷ đầu tiên được ghi nhận trên thế giới. Đó chính là Hugh Blair (1708 - 1765) - một người Scotland đến từ Borgue, Kirkcudbrightshire, người được đặt biệt danh là "chàng trai sành điệu của Borgue" do nhiều tính cách lập dị của mình.[3]

Ghi nhận trường hợp của cậu bé “hoang dã” Victor ở Aveyron, cậu bé này không có khả năng biểu đạt bằng ngôn ngữ, không có khả năng giao tiếp hoặc nhận thức. Cậu được bác sỹ Jean Marc Itard tiếp nhận và chữa trị bằng nhiều cách: tạo hứng thú xã hội, đánh thức sự nhạy cảm thần kinh, tăng cường thực hành ngôn ngữ và các thao tác trí tuệ đơn giản… Bác sỹ Itard đã mô tả những triệu chứng của hội chứng tự kỷ theo hướng y khoa, lâm sàng nhiều hơn những mô tả trước nhưng vẫn đủ để khẳng định sự tồn tại của những đứa trẻ tự kỷ trước đó. [4]

Nhà tâm lý học người Thụy Sĩ, Paul Eugen Bleuler là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "Tự kỷ (Autism)", sử dụng nó để mô tả những gì ông tin là "phiên bản thời thơ ấu của bệnh tâm thần phân liệt". Autism có nguồn gốc là từ Autos trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là tự thân. Bleuler dùng thuật ngữ này để chỉ giai đoạn đầu của rối loạn thần kinh ở người lớn, nhận thức của người bệnh có xu hướng không giống với các kinh nghiệm thông thường do các rối loạn tâm thần. Vào thời đó, tự kỷ được xem như một dạng của tâm thần phân liệt.

Grunya Sukhareva, một bác sĩ tâm thần nhi khoa ở Kiev - Nga đã viết về 6 đứa trẻ mắc chứng tự kỷ trên một tạp chí khoa học về thần kinh và tâm thần học của Đức. [5]

Leo Kanner - Một bác sĩ tâm thần nhi khoa tại Trường Y Johns Hopkins, Hoa Kỳ đã xuất bản một bài báo mô tả 11 bệnh nhi bị ám ảnh bởi cái mà ông mô tả là “kháng cự lại sự thay đổi không mong muốn”. Sau đó, ông đặt tên cho tình trạng này là "Infant Autism" (Tạm dịch là: chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh). Karner là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "Infant Autism" (Chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh/ Tự kỷ nhũ nhi). [6]

Bác sĩ nhi khoa người Áo - Hans Asperger đã công bố một nghiên cứu khoa học quan trọng về trẻ em mắc chứng tự kỷ, một nghiên cứu điển hình mô tả 4 đứa trẻ từ 6 đến 11. Ông nhận thấy cha mẹ của một số trẻ có tính cách giống nhau hoặc tính cách lập dị và đây được coi là bằng chứng về mối liên hệ giữa tự kỷ và di truyền. Ông cũng được ghi nhận là đã mô tả một dạng tự kỷ hoạt động cao hơn, sau này được gọi là hội chứng Asperger.[7]

Leo Kanner đã công bố lý thuyết do ông nghiên cứu, rằng chứng tự kỷ là do "Refrigerator Moms" (những bà mẹ tủ lạnh) - một thuật ngữ dùng để mô tả những bậc cha mẹ lạnh lùng và tách biệt.

Trong ấn bản đầu tiên của Sổ tay thống kê và chẩn đoán các rối loạn tâm thần của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (DSM - American Psychiatric Association), trẻ em có các triệu chứng của bệnh tự kỷ bị dán nhãn là bị tâm thần phân liệt thời thơ ấu.[8]

Leon Eisenberg đã xuất bản một bài báo về "Trẻ tự kỷ ở tuổi vị thành niên", theo dõi 63 trẻ tự kỷ trong 9 năm và theo dõi, khảo sát một lần nữa vào lúc những đứa trẻ tự kỷ 15 tuổi.[9]

Nhà khoa học người Áo - Bruno Bettelheim đã đăng một bài báo trên tạp chí Scientific American về Joey, một cậu bé 9 tuổi mắc chứng tự kỷ.

Bernard Rimland xuất bản cuốn sách "Chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh: Hội chứng và ý nghĩa của nó đối với lý thuyết hành vi thần kinh (Infantile Autism: The Syndrome and Its Implications for Neurobehavioral Theory)". Những thông tin trong cuốn sách của Bernard Rimland thách thức lý thuyết “những bà mẹ tủ lạnh” và thảo luận về các yếu tố thần kinh trong chứng tự kỷ.[10]

Cùng năm, Ole Ivar Lovaas bắt đầu nghiên cứu lý thuyết của ông về liệu pháp Phân tích hành vi ứng dụng (ABA - Applied Behavior Analysis) cho trẻ tự kỷ.[11]

Trường Sybil Elgar bắt đầu giảng dạy và chăm sóc trẻ em mắc chứng tự kỷ.

Một nhóm cha mẹ của trẻ tự kỷ có cuộc họp đầu tiên với Hiệp hội Quốc gia về Trẻ Tự kỷ - National Autism Association (nay được gọi là Hiệp hội Tự kỷ Hoa Kỳ - Autism Society of America).

Bruno Bettelheim đã viết cuốn sách "Empty Fortress" (Tạm dịch: Pháo đài trống), để củng cố cho lý thuyết “những bà mẹ tủ lạnh” là nguyên nhân của chứng tự kỷ.[12]

Đạo luật Giáo dục cho tất cả Trẻ em Khuyết tật (bao gồm cả trẻ tự kỷ) được ban hành ở Mỹ, để giúp bảo vệ các quyền và đáp ứng nhu cầu của trẻ em khuyết tật. Hầu hết các trẻ em bị khuyết tật ở Mỹ trước đó không được đến trường.[13]

Susan Folstein và Michael Rutter công bố nghiên cứu đầu tiên về các cặp song sinh và chứng tự kỷ. Nghiên cứu phát hiện ra rằng di truyền là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh tự kỷ.[14]

Ấn bản thứ ba của Cẩm nang phân loại và chẩn đoán các bệnh tâm thần (DSM-3 - Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders), lần đầu tiên nói đến các tiêu chí để chẩn đoán chứng tự kỷ ở trẻ sơ sinh.[15]

Tự kỷ được đưa vào danh mục khuyết tật trong Đạo luật Giáo dục người khuyết tật (IDEA - Disabilities Education Act) của Mỹ, giúp trẻ tự kỷ dễ dàng nhận được các dịch vụ giáo dục đặc biệt hơn.[16]

Temple Grandin đã viết cuốn sách "Rise - Autistic People Labeled" (Tạm dịch: Hãy vùng lên, những người tự kỷ bị dán nhãn), là cuốn sách tự sự về cuộc đời của cô ấy với chứng tự kỷ và cách cô ấy trở nên thành công trong lĩnh vực của mình.

Andrew Wakefield xuất bản bài báo của mình trên tạp chí Lancet cho rằng vaccine sởi-quai bị-rubella (MMR) gây ra chứng tự kỷ. Lý thuyết này đã bị chứng minh là SAI bởi các nghiên cứu dịch tễ học toàn diện.[17]

Hiệp hội Tự kỷ (the Autism Society) chính thức sử dụng "Autism Awareness Puzzle Ribbon" (Tạm dịch: Ruy băng nhận thức về tự kỷ) làm biểu tượng nhận biết tự kỷ. Ruy băng nhận thức về tự kỷ gồm các mảnh ghép puzzle nhiều màu sắc, phản ánh mức độ phức tạp của phổ tự kỷ.

Mặc dù biểu tượng này là biểu tượng của Hiệp hội Tự kỷ nhưng tổ chức này cho phép các tổ chức phi lợi nhuận khác sử dụng để thể hiện sự thống nhất và thúc đẩy sứ mệnh toàn cầu trong việc nhận thức về tự kỷ.

Bernard Rimland và Stephen Edelson viết cuốn sách "Restoring Children with Autism" (Tạm dịch: Giúp trẻ tự kỷ phục hồi)

Ari Ne'eman thành lập tổ chức ASAN - Autism Advocacy Network (Tạm dịch: Mạng lưới hoạt động vì người tự kỷ).

Dora Raymaker và Christina Nicolaidis thành lập tổ chức AASPIRE - Autism Spectrum Academic Collaboration in Research and Education (Tạm dịch: Tổ chức Học thuật trong Nghiên cứu và Giáo dục phổ tự kỷ) để cung cấp các nguồn lực cho những người lớn mắc chứng tự kỷ và cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Tổng thống Mỹ ký Đạo luật Chống Tự kỷ (Autism Prevention Act) để cung cấp hỗ trợ cho việc nghiên cứu và điều trị chứng tự kỷ. [18]

Liên Hợp Quốc (WHO) quyết định lấy ngày 2 tháng 4 hằng năm là "Ngày thế giới nhận thức về chứng tự kỷ (World Autism Awareness Day)".

Sau một quá trình lâu dài tái bản và chỉnh sửa, DSM-5 đã đưa ra phân loại gần như là hoàn thiện nhất của cuốn cẩm nang này về Nhóm bệnh Rối loạn phát triến lan tỏa, trong đó bao gồm bệnh tự kỷ/ hội chứng tự kỷ. [19]

*Nhóm bệnh Rối loạn phát triển lan tỏa (PDD - Pervassive Development Disorders) là cái tên được DSM-4 (Cẩm nang Phân loại và Chẩn đoán các bệnh tâm thần) của Hiệp hội Chuyên gia Tâm thần Hoa Kỳ chính thức đặt ra. Một số sách báo còn gọi nhóm bệnh này bằng cụm từ "Rối loạn phổ tự kỷ" (Autism Spectrum Disorders). Cả hai thuật ngữ này đều có ý nghĩa như nhau. [2]

Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh CDC Mỹ công bố kết quả nghiên cứu thống kế: ở Mỹ cứ 54 trẻ thì có một trẻ được xác định mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD).[20]

[1] Định nghĩa từ bài viết của Tiến Sĩ Trần Trung Kiên - Chuyên viên nghiên cứu di truyền tại Phòng nghiên cứu, Viện nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ gen Vinmec.

[2] Trích sách "Thấu hiểu & hỗ trợ trẻ tự kỷ" được viết bởi Tiến sĩ Phạm Toàn và Bác sĩ Lâm Hiểu Minh.

[3] Wikipedia: Hugh Blair of Borgue

[4] Wikipedia: Victor of Aveyron

[5] Posar A, Visconti P. Tribute to Grunya Efimovna Sukhareva, the woman who first described infantile autism. J Pediatr Neurosci. 2017;12(3):300-301. doi:10.4103/jpn.JPN_46_17

[6] The Autism History Project. J. Louise Despert, "Schizophrenia in Children, 1938

[7] Czech H. Hans asperger, national socialism, and "race hygiene" in nazi-era vienna. Mol Autism. 2018;9:29. doi:10.1186/s13229-018-0208-6

[8] Sasson NJ, Pinkham AE, Carpenter KL, et al. The benefit of directly comparing autism and schizophrenia for revealing mechanisms of social cognitive impairment. J Neurodev Disord. 2011;3(2):87-100. doi:10.1007/s11689-010-9068-x

[9] Eisenberg, L. The autistic child in adolescence. Am J Psychiatry. 1956 Feb;112(8):607-12. doi: 10.1176/ajp.112.8.607.

[10] Rimland, B. (1964). Infantile autism: The syndrome and its implications for a neural theory of behavior. Appleton-Century-Crofts.

[11] The Lovaas Center. Lovass ABA Treatment for Autism

[12] Deslauriers N. The empty fortress: Infantile autism and the birth of the self. Arch Gen Psychiatry. 1967;17(4):510–512. doi:10.1001/archpsyc.1967.01730280126018

[13] U.S. Department of Education. Twenty-five years of progress in educating children with disabilities through IDEA. Updated July 19, 2007.

[14] Folstein S, Rutter M. Infantile autism: a genetic study of 21 twin pairs. J Child Psychol Psychiatry. 1977;18(4):297-321. doi:10.1111/j.1469-7610.1977.tb00443.x

[15] Volkmar FR, Bregman J, Cohen DJ, et al. DSM-III and DSM-III-R diagnoses of autism. Am J Psychiatry. 1988 Nov;145(11):1404-8. doi: 10.1176/ajp.145.11.1404.

[16] U.S. Dept of Education. Individuals with Disabilities Education Act.

[17] Rao TS, Andrade C. The MMR vaccine and autism: Sensation, refutation, retraction, and fraud. Indian J Psychiatry. 2011;53(2):95-6. doi:10.4103/0019-5545.82529

[18] Congress.gov. Combating Autism Act of 2006.

[19] American Psychiatric Association.DSM-5. Autism Spectrum Disorder.

[20] Centers for Disease Control and Prevention. Data & statistics on autism spectrum disorder. Updated March 25, 2020.

"Lịch sử của chứng tự kỷ" được chuyển ngữ tiếng Việt và tổng hợp chính từ https://www.verywellhealth.com/autism-timeline-2633213 và có đối chiếu với các nguồn thông tin và tài liệu khác trên internet, bởi SGF Vietnam Korea.