Tình Hình Kinh Tế 9 Tháng Đầu Năm 2024

Tình Hình Kinh Tế 9 Tháng Đầu Năm 2024

BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2024

Minh Hoàng • 06/12/2024 - 15:36

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng đầu năm 2024 của Tổng cục Thống kê cho thấy một số tín hiệu tích cực như: tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 11 tháng ước đạt 715,55 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 31,4 tỷ USD; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 15,8 triệu lượt người, tăng 41%...

Năm 2024 là năm bứt phá, có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng tốc và phấn đấu thực hiện hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) 5 năm 2021-2025. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, dự báo tình hình KT-XH vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: Hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục bị tác động bởi diễn biến bất lợi của tình hình thế giới và khu vực; thị trường bất động sản chưa thực sự khởi sắc; đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn; sự phục hồi của các doanh nghiệp sau dịch COVID-19 còn chậm; trong khi đó, các yếu tố nền tảng cho sự phát triển của tỉnh như hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ,... chưa đáp ứng yêu cầu.

Trong bối cảnh đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động số 44/KH-UBND ngày 10/01/2024 thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Kế hoạch số 163/KH-UBND ngày 25/01/2024 và các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ giải pháp chủ yếu  thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 để chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung, khẩn trương tổ chức triển khai đồng bộ, hiệu quả ngay từ đầu năm các giải pháp, điều hành của Chính phủ về ưu tiên, thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng; khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Các hội nghị về đẩy nhanh thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, công tác thu ngân sách, công tác giao chỉ tiêu thu tiền sử dụng đất và phát triển quỹ đất năm 2024,… được UBND tỉnh tổ chức khẩn trương và chỉ đạo cụ thể, quyết liệt.

Nhờ đó, KT-XH 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Quảng Bình đã đạt những kết quả tích cực: Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, GRDP 6 tháng đầu năm dự ước tăng 6,50% (xếp hạng về tăng trưởng đứng thứ 29 cả nước và đứng thứ 8/14 các tỉnh Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung); sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả cao; khai thác thủy sản phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; du lịch tăng trưởng nhanh; môi trường đầu tư từng bước được cải thiện; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống văn hóa và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng cao; tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm;...

Kết quả ước tính của một số chỉ tiêu chủ yếu 6 tháng đầu năm 2024 như sau:

- Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) theo giá so sánh 2010 đạt 14.927,7 tỷ đồng, tăng 6,50% [1] so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước tăng 6,90%; kế hoạch năm 2024 tăng 7,0-7,5%);

- Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 2010 tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,54%; kế hoạch năm 2024 tăng 3,0 - 3,5%);

- Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng theo giá so sánh 2010 tăng 9,58% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 8,04%); Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 7,77% (6 tháng đầu năm 2023 tăng 7,04%; kế hoạch năm 2024 tăng 8,0-8,5%);

- Giá trị sản xuất dịch vụ theo giá so sánh 2010 tăng 7,07% so với cùng kỳ năm trước (6 tháng đầu năm 2023 tăng 8,05%; kế hoạch năm 2024 tăng 7,5-8,0%);

- Cơ cấu kinh tế: Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 19,66%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 29,17% (bao gồm cả thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); khu vực dịch vụ chiếm 51,17%;

- Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân 2023 - 2024 đạt 213.160,5 tấn, tăng 2,1% so với vụ Đông Xuân năm trước và vượt 10,6% kế hoạch;

- Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm đạt 44.403,6 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ;

- Sản lượng thủy sản đạt 47.584,5 tấn, tăng 2,8% với cùng kỳ năm trước;

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 14.255,1 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước;

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 25.590,9 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước.

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, ước tính tổng sản phẩm (theo giá so sánh năm 2010) trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 đạt 14.927,7 tỷ đồng, tăng 6,50% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 2.731,0 tỷ đồng, tăng 2,96%, đóng góp 0,62 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 3.998,9 tỷ đồng, tăng 7,96%, đóng góp 2,33 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đạt 7.709,1 tỷ đồng, tăng 7,03%, đóng góp 4,0 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 488,7 tỷ đồng, tăng 6,90% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 0,25 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế toàn tỉnh.

Hình 1. Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2024

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sáu tháng đầu năm 2024, sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024 trong điều kiện thời tiết khá thuận lợi, công tác gieo trồng các loại cây hàng năm đảm bảo tiến độ và lịch thời vụ. Năng suất, sản lượng cây lúa và nhiều loại cây trồng tăng so với vụ Đông Xuân năm trước. Hoạt động chăn nuôi nhìn chung phát triển ổn định, sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng so với cùng kỳ. Sản xuất thuỷ sản mặc dù gặp một số khó khăn, nhưng tranh thủ thời tiết thuận lợi, các địa phương tích cực vận động ngư dân vươn khơi, bám biển nên sản lượng thuỷ sản có tăng so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực công nghiệp - xây dựng: Sản xuất công nghiệp mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Một số năng lực mới được đầu tư và đi vào hoạt động như Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty Cổ phần Xenlulo Quảng Bình, Nhà máy sản xuất viên nén gỗ Dũng Nguyệt Anh, Nhà máy bê tông Nghi Sơn Quảng Bình,… góp phần thúc đẩy tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Đối với lĩnh vực xây dựng - đầu tư, ngay từ đầu năm 2024, bên cạnh nhiều công trình, dự án lớn tiếp tục được triển khai thực hiện, một số công trình, dự án mới được khởi công, nhiều công trình đầu tư xây dựng của khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ gia đình cũng được khởi công xây dựng trong những tháng đầu năm góp phần thúc đẩy tăng trưởng khu vực này.

Khu vực dịch vụ: Cùng với sự phát triển các ngành sản xuất, 6 tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại - dịch vụ trên địa bàn tiếp tục đạt kết quả tích cực. Ngành Du lịch phát triển đã kích thích nhu cầu tiêu dùng xã hội, thị trường giá cả ổn định, cân đối cung cầu vật tư quan trọng và hàng tiêu dùng thiết yếu được đảm bảo,… Nhu cầu du lịch tăng mạnh nên các ngành dịch vụ liên quan như: Bán lẻ hàng hoá, dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành, vận tải, các dịch vụ vui chơi, giải trí,... có nhiều khởi sắc. Ngành Du lịch Quảng Bình cũng đã đẩy mạnh và làm tốt công tác quảng bá du lịch cùng với nhiều hoạt động lễ hội được tổ chức với quy mô lớn, chất lượng dịch vụ tốt làm cho số lượt khách đến Quảng Bình tăng cao. Khu vực này là khu vực đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng chung của cả tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 (đóng góp 4,0 điểm % trong tống số 6,50% tăng trưởng GRDP).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sáu tháng đầu năm 2024, sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024 trong điều kiện thời tiết đầu vụ tương đối thuận lợi, nên công tác gieo trồng các loại cây hàng năm thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo lịch thời vụ đề ra; năng suất lúa và một số loại cây trồng khác tăng. Chăn nuôi phát triển ổn định, công tác phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, vận chuyển đảm bảo an toàn. Sản xuất lâm nghiệp tập trung thực hiện công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, khai thác gỗ từ rừng trồng, phòng cháy và chữa cháy rừng. Hoạt động khai thác, nuôi trồng thuỷ sản phát triển ổn định theo hướng bền vững gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thuỷ sản, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác xa bờ; nhân rộng các mô hình nuôi thuỷ sản công nghệ cao tại một số địa phương.

* Sản xuất vụ Đông Xuân 2023 - 2024

Sản xuất vụ Đông Xuân năm nay trong điều kiện thời tiết đầu Vụ tương đối thuận lợi cho bà con nông dân gieo cấy đảm bảo đúng tiến độ, cơ bản hết diện tích, giống lúa được đáp ứng đầy đủ, có chất lượng cao; công tác tưới, tiêu được chủ động, điều tiết hợp lý. Từ ngày 02 - 06/5/2024, trên địa bàn tỉnh xuất hiện các đợt mưa giông làm một số diện tích lúa bị đổ ngã, tuy nhiên về cơ bản diện tích lúa đổ ngã đã chín, một số địa phương đã thu hoạch gần xong trước đó nên không  ảnh hưởng nhiều đến năng suất, sản lượng lúa.

Ước tính diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm nay thực hiện 53.917,1 ha, giảm 0,1% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó, diện tích lúa thực hiện 29.228,5 ha, giảm 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Diện tích lúa ở các địa phương: Đồng Hới 837,4 ha, giảm 1,6%; Ba Đồn 2.601,0 ha, giảm 0,9%; Minh Hóa 490,1 ha, giảm 4,1%; Tuyên Hóa 1.436,4 ha, giảm 0,4%; Quảng Trạch 3.482,0 ha, tăng 0,6%; Bố Trạch 5.088,5 ha, giảm 1,2%; Quảng Ninh 5.189,0 ha, tăng 0,1%; Lệ Thủy 10.104,1 ha, giảm 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Diện tích gieo trồng một số cây trồng chủ yếu: Ngô 4.115,4 ha, tăng 1,5%; khoai lang 2.304,2 ha, tăng 1,1%; sắn 7.283,0 ha, tăng 8,7%; mía 175 ha, tăng 0,1%; lạc 2.619,5 ha, giảm 14,1%; rau các loại 4.466,0 ha, tăng 0,04%; đậu các loại 491,0 ha, tăng 0,5% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Hình 2. Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ Đông Xuân

Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, sự cố gắng của bà con nông dân nhằm nâng cao chất lượng giống, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nên năng suất, sản lượng của cây lúa vụ Đông Xuân năm nay ước tính tăng so với vụ Đông Xuân năm trước.

Ước tính năng suất một số cây trồng chủ yếu vụ Đông Xuân 2023 - 2024 như sau: Năng suất lúa bình quân chung cả tỉnh đạt 64,71 tạ/ha, tăng 3,5% so với vụ Đông Xuân năm trước. Các loại cây trồng khác: Ngô đạt 58,09 tạ/ha, giảm 5,4%; khoai lang đạt 81,36 tạ/ha, tăng 0,8%; lạc đạt 24,17 tạ/ha, giảm 0,2%; cây rau các loại đạt 108,98 tạ/ha, tăng 0,6%; đậu, đỗ các loại đạt 9,15 tạ/ha, giảm 0,6% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Sản lượng lương thực vụ Đông Xuân năm 2023 - 2024 ước đạt 213.160,5 tấn, tăng 2,1% so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó: Sản lượng thóc 189.123,3 tấn, tăng 3,0% so với năm trước; sản lượng lương thực khác 24.037,2 tấn, giảm 4,5% so với vụ Đông Xuân năm trước.

Diện tích gieo trồng vụ Đông Xuân năm nay giảm, năng suất và sản lượng một số loại cây trồng chủ yếu tăng so với vụ Đông Xuân năm trước. Nhờ sự chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp đã điều chỉnh cơ cấu diện tích cây trồng chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Công tác chuyển giao và áp dụng tiến bộ khoa học được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ vào sản xuất đạt kết quả tốt, nhờ đó đã tạo được sự ổn định về tăng năng suất, sản lượng cây trồng. Vấn đề đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng được quan tâm đẩy mạnh. Nổi bật là công tác gieo trồng bằng các loại giống mới, giống nguyên chủng, giống cấp I có thời gian sinh trưởng phù hợp, chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh khắc nghiệt và cho năng suất cao được đưa vào sản xuất.

* Triển khai sản xuất vụ Hè Thu 2024

Ngay sau khi hoàn thành thu hoạch lúa Đông Xuân, các địa phương tập trung vào việc triển khai sản xuất vụ Hè Thu đảm bảo đúng lịch thời vụ. Đồng hành với nông dân, ngành Nông nghiệp và các địa phương đã triển khai nhiều giải pháp để đảm bảo vụ Hè Thu năm 2024 có kết quả tốt như: Hướng dẫn cơ cấu cây trồng, thời vụ; xây dựng kế hoạch gieo trồng và phương án chống hạn cho cây trồng, phương án phòng trừ sâu bệnh ngay từ đầu Vụ; chuẩn bị triển khai các phương án phòng tránh diễn biến bất thường của thời tiết, nhằm thu hoạch trước mùa mưa bão, giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra,… Ngoài ra, các địa phương khuyến khích người dân sử dụng các giống lúa cực ngắn và ngắn ngày, có năng suất, chất lượng, chống chịu khá với sâu bệnh, điều kiện ngoại cảnh bất thuận và hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật để giảm chi phí trong sản xuất lúa vụ Hè Thu,... Hiện tại nông dân các địa phương trên địa bàn tỉnh đã và đang xuống giống vụ Hè Thu.

Tính đến ngày 06/6/2024, diện tích lúa Hè Thu đã gieo 15.481 ha, trong đó: Đồng Hới 775 ha, Ba Đồn 2.200, Minh Hóa 460 ha, Tuyên Hóa 1.107ha, Quảng Trạch 3.376 ha, Bố Trạch 2.700 ha, Quảng Ninh 3.501 ha, Lệ Thủy 1.362 ha.

Sáu tháng đầu năm 2024, thời tiết tương đối thuận lợi đã tạo điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát triển cây lâu năm; sản xuất cây lâu năm được phục hồi và phát triển khá so với cùng kỳ năm trước. Các địa phương tập trung chăm sóc, đồng thời triển khai chuyển đổi một số cây kém hiệu quả sang trồng mới một số cây có hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế cao, phù hợp điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng của từng địa phương như thanh long, mít, bưởi, ổi, chanh leo,… Theo đó, diện tích cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ năm trước và có sự chuyển dịch theo hướng mở rộng diện tích các loại cây có thị trường tiêu thụ ổn định, hiệu quả kinh tế cao.

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 17.960,8 ha, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây lâu năm chia theo các nhóm cây như sau: Cây ăn quả 4.319,9 ha, tăng 0,3%; cây lấy quả chứa dầu 53,2 ha, tăng 1,3%; cây hồ tiêu 957,3 ha, giảm 3,8%; cây cao su 12.223,4 ha, tăng 1,2%; cây chè 198,3 ha, tăng 13,8%; cây gia vị, cây dược liệu lâu năm 87,2 ha, giảm 5,2%; cây lâu năm khác 121,7 ha, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng một số cây trồng chủ yếu 6 tháng đầu năm 2024 như sau: Cao su 3.499 tấn, tăng 1,3%; hồ tiêu 669 tấn, giảm 1,5%; chuối 9.495 tấn, tăng 1,1%; cam 500 tấn, tăng 1,0%; bưởi 651 tấn, giảm 0,6%; dứa 772 tấn, tăng 2,3%; mít 1.407 tấn, tăng 0,9%; nhãn 180 tấn, giảm 0,6%; vải 257 tấn, giảm 0,4%; xoài 315 tấn, giảm 0,3% so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 nhìn chung phát triển ổn định. Số lượng đàn trâu, bò giảm do một số địa phương không tái đàn; đàn lợn tăng trưởng khá, công tác phòng dịch, kiểm soát giết mổ, vận chuyển luôn được quan tâm, đảm bảo an toàn thực phẩm, giá thịt lợn hơi tăng làm động lực thúc đẩy bà con nông dân tăng gia sản xuất và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn; đàn gia cầm phát triển tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra, sản lượng xuất chuồng tăng cao nhằm đảm bảo nguồn cung đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong dịp lễ, phục vụ nhu cầu du lịch, ăn uống trên địa bàn tỉnh.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng quý II/2024  đạt 21.844,7 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu đạt 443,0 tấn, giảm 6,1%; thịt bò đạt 1.938,0 tấn, giảm 15,5%; thịt lợn đạt 12.614,6 tấn, tăng 3,6%; thịt gia cầm đạt 6.849,1 tấn, tăng 6,7% (trong đó: thịt gà đạt 5.234,3 tấn, tăng 8,0%) so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thịt hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm 2024 đạt 44.403,6 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thịt trâu đạt 901,0 tấn, giảm 5,2%; thịt bò đạt 3.995,0 tấn, giảm 15,2%; thịt lợn đạt 25.723,0 tấn, tăng 4,5%; thịt gia cầm đạt 13.784,6 tấn, tăng 6,6% (trong đó: thịt gà đạt 10.555 tấn, tăng 7,9%) so với cùng kỳ năm trước.

Hình 3. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng trâu, bò giảm mạnh do giá trâu, bò hơi giảm, hiệu quả kinh tế không cao nên một thời gian dài người chăn nuôi không tái đàn, đặc biệt đàn bò của Công ty TNHH chăn nuôi Hòa Phát Quảng Bình đã xuất bán hết từ lâu và chưa tái đàn sản xuất. Sản lượng thịt gà xuất chuồng tăng cao do công tác vệ sinh thú ý thực hiện tốt, không có dịch bệnh lớn xảy ra, đàn gà phát triển mạnh.

Tình hình dịch bệnh gia súc, gia cầm:

- Bệnh Dịch tả lợn châu Phi: Hiện nay còn 01 xã có dịch chưa qua 21 ngày (xã Xuân Hóa, huyện Minh Hóa). Lũy kế đến ngày 28/5/2024, dịch bệnh đã xảy ra ở 4 hộ/3 thôn/3 xã/3 huyện làm 35 con lợn buộc tiêu hủy với trọng lượng 1.509 kg.

- Bệnh Viêm da nổi cục trên trâu bò: Hiện còn 2 xã (xã Tiến Hóa, huyện Tuyên Hóa và xã Quảng Châu, huyện Quảng Trạch) có dịch chưa qua 21 ngày. Lũy kế đến ngày 04/6/2024, dịch bệnh đã xảy ra tại 39 hộ/22 thôn/12 xã/4 huyện (Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Quảng Ninh và Bố Trạch) làm 57 con bò mắc bệnh, trong đó có 13 con bò chết với trọng lượng 1.928 kg [2].

Sản xuất lâm nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 ở các địa phương tập trung chủ yếu vào việc chăm sóc, trồng dặm, trồng bổ sung và triển khai trồng cây phân tán; khai thác gỗ từ rừng trồng, tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng và tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân, tổ chức tập huấn công tác phòng chống, cháy rừng trước khi bước vào mùa nắng nóng.

Ước tính diện tích rừng trồng mới quý II/2024 thực hiện 2.019 ha, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 thực hiện 3.712 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước. Hiện nay, các chủ rừng đang tiến hành chăm sóc rừng lần 1 đối với diện tích rừng trồng mới đúng tiến độ.

Sản lượng gỗ khai thác quý II/2024 ước đạt 178.713 m3, tăng 11,4% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 275.680 m3, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng củi khai thác quý II/2024 ước đạt 91.711 ste, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; 6 tháng đầu năm ước đạt 140.120,0 ste, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác bảo vệ rừng được các cấp, các ngành quan tâm. Triển khai kịp thời công tác tuyên truyền về ý thức bảo vệ rừng cho người dân vùng có rừng; tổ chức tập huấn công tác phòng, chống cháy rừng cho các chủ rừng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát phá rừng trái phép,… Từ đầu năm đến nay, thời tiết nắng nóng kéo dài, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 8 vụ cháy rừng, diện tích bị cháy 31,36 ha, diện tích rừng bị thiệt hại 9,26 ha [3].

Những tháng đầu năm 2024, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác và nuôi trồng thủy sản, sản lượng khai thác và thu hoạch thủy sản tăng. Tình hình dịch bệnh cơ bản kiểm soát tốt, các hộ nuôi trồng thuỷ sản tiếp tục thu hoạch sản phẩm nuôi trồng; đồng thời cải tạo, tu sửa, gia cố hồ, ao nuôi, bờ đê ruộng lúa để chuẩn bị cho vụ nuôi mới.

Ước tính sản lượng thủy sản quý II/2024 đạt 29.806,5 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 24.847,7 tấn, tăng 2,7%; tôm đạt 1.398,1 tấn, tăng 1,8%; thuỷ sản khác đạt 3.560,7 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 đạt 47.584,5 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 39.605,2 tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 2.386,3 tấn, tăng 2,0%; thuỷ sản khác đạt 5.593,0 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, khai thác thuỷ sản còn gặp một số khó khăn: Một số tàu đánh bắt hải sản bị hạn chế vùng ngư trường do các ngành chức năng tăng cường công tác chống khai thác IUU; một số tàu thuyền gặp nạn do giông lốc; một số tàu cá thiếu lao động chất lượng cao,... Tuy nhiên nhờ thời tiết tương đối thuận lợi, giá các mặt hàng thuỷ sản duy trì ổn định, nhu cầu tiêu thụ hải sản tăng mạnh nên bà con ngư dân tăng cường vươn khơi bám biển, duy trì khai thác nên sản lượng khai thác thuỷ sản tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng khai thác thuỷ sản quý II/2024 đạt 26.602,7 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 22.657,7 tấn, tăng 2,7%; tôm đạt 441,2 tấn, tăng 1,4%; thuỷ sản khác đạt 3.503,8 tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng khai thác thủy sản ước 6 tháng đầu năm đạt 42.294,1 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng chia theo nhóm sản phẩm: Cá đạt 35.985,2 tấn, tăng 3,0%; tôm đạt 836,0 tấn, tăng 1,8%; thủy sản khác đạt 5.472,9 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng khai thác chia theo ngư trường: Khai thác biển 40.630,0 tấn tăng 2,9%; khai thác nội địa 1.664,1 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hiện nay, các cấp, các ngành chức năng và bà con ngư dân đang thực hiện hoạt động khai thác gắn liền với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chống khai thác hợp pháp, hạn chế các vi phạm khi đánh bắt. Nhờ vậy, sản lượng khai thác của đội tàu các địa phương được duy trì và cơ bản đảm bảo an toàn khi sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các sở, ngành, lực lượng chức năng thường xuyên chỉ đạo và triển khai các giải pháp chống khai thác IUU.

Sáu tháng đầu năm 2024, nuôi trồng thuỷ sản khá ổn định, thời tiết thuận lợi, ít dịch bệnh nên sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính sản lượng nuôi trồng thu hoạch quý II/2024 đạt 3.203,8 tấn, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 2.190,0 tấn, tăng 2,8%; tôm đạt 956,9 tấn, tăng 2,0%; thuỷ sản khác đạt 56,9 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng nuôi trồng thu hoạch 6 tháng ước đạt 5.290,4 tấn, tăng 3,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Cá đạt 3.620,0 tấn, tăng 3,4%; tôm đạt 1.550,3 tấn, tăng 2,1%; thủy sản khác đạt 120,1 tấn, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước.

Các loại thủy sản được khuyến khích đưa vào nuôi là tôm thẻ chân trắng, tôm sú, nuôi cua, cá lồng trên sông và các loại cá truyền thống kết hợp đa dạng hóa sản phẩm nuôi trồng. Hiện nay, một số địa phương trong tỉnh đã và đang thực hiện mô hình nuôi hàu đại dương thử nghiệm trên sông; nuôi hàu treo dây ở vùng cửa sông là mô hình mới, bước đầu các hộ dân đã nuôi đạt tỷ lệ sống cao, kỳ vọng sẽ mang lại hiệu quả kinh tế bền vững trong thời gian tới.

Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục duy trì đà tăng trưởng. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh các cơ sở sản xuất hiện có đang duy trì hoạt động ổn định (cơ sở chế biến thực phẩm, đồ uống, sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất, sản xuất và phân phối điện,…), một số năng lực mới được đầu tư và đi vào hoạt động trong thời gian qua (Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty Cổ phần Xenlulo Quảng Bình, Nhà máy sản xuất viên nén gỗ Dũng Nguyệt Anh, Nhà máy bê tông Nghi Sơn Quảng Bình,…) đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Ước tính giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm 2024 tăng 7,77% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 6 năm 2024 tăng 4,4% so với tháng trước và tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng tăng 8,8%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 6,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý II năm 2024 tăng 7,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 2,2%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,9%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 9,2%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 6,3%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,0%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,1%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2024 của một số ngành cấp 2 tăng so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng gấp 24,1 lần (tăng cao do Nhà máy giấy Quảng Bình - Công ty CP Xenlulo Quảng Bình mới đi vào hoạt động); sản xuất đồ uống tăng 24,5%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 12,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn ghế) tăng 9,3%; khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 9,2%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 8,3%. Một số ngành cấp 2 giảm so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 0,6%; khai thác quặng kim loại giảm 2,3%; sản xuất trang phục giảm 2,9%; khai khoáng khác giảm 9,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su plastic giảm 11,8%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 32,7% (ngành sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm mạnh do sản phẩm thuốc tiêu thụ giảm sút nên doanh nghiệp giảm sản xuất).

Hình 6. Chỉ số sản xuất công nghiệp

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2024: Quặng titan đạt 23.227 tấn, giảm 2,3%; đá xây dựng đạt 1.329,1 nghìn m3, giảm 9,9%; cao lanh đạt 30.062 tấn, giảm 27,6%; thủy hải sản chế biến các loại đạt 13.288 tấn, tăng 16,1%; tinh bột sắn đạt 5.812 tấn, tăng 79,8%; bia đóng chai đạt 3.071 nghìn lít, tăng 94,8%; nước khoáng có ga đạt 1.041 nghìn lít, tăng 22,7%; áo quần các loại (trừ áo sơ mi người lớn) đạt 2.039 nghìn cái, giảm 23,9%; áo sơ mi đạt 6.019 nghìn cái, tăng 12,4%; dăm gỗ đạt 160.813 tấn, giảm 7,4%; ván ép từ gỗ đạt 22.703 m3, tăng 38,7%; cao su tổng hợp đạt 634 tấn, tăng 13,7%; kính cường lực đạt 1.377 tấn, giảm 2,5%; clinker thành phẩm đạt 1,1 triệu tấn, giảm 13,1%; xi măng đạt 751.774 tấn, giảm 4,0%; điện gió đạt 220,7 triệu kwh, giảm 19,3%; điện mặt trời đạt 59,9 triệu kwh, tăng 14,3%; điện thương phẩm đạt 585 triệu kwh, tăng 12,7%; nước máy thương phẩm đạt 7.352 nghìn m3, tăng 8,0%.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước. UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công ngay từ những tháng đầu năm và xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm có ý nghĩa quan trọng tạo ra động lực cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh. Công tác xúc tiến, thu hút đầu tư tiếp tục được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong những tháng đầu năm 2024, nhiều công trình, dự án lớn tiếp tục được triển khai thực hiện như: Dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch; Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Bắc Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 đoạn qua Quảng Bình; dự án đường ven biển và cầu Nhật Lệ 3; Dự án Trung tâm Thể dục - Thể thao tỉnh Quảng Bình; Dự án Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh;… Một số công trình, dự án mới được khởi công trong năm như: Dự án Bệnh viện Đa khoa Bắc Quảng Bình; Dự án cải tạo đường sắt khu vực đèo Khe Nét;… Bên cạnh đó, các dự án khu nhà ở thương mại, khu đô thị trên địa bàn tỉnh cũng đang tiếp tục được các chủ đầu tư, đơn vị thi công đẩy nhanh tiến độ thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024.

Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn: Vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn tỉnh trong quý II năm 2024 ước tính đạt 8.013,0 tỷ đồng, tăng 28,4% so với quý trước và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh đạt 14.255,1 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước đạt 3.010,8 tỷ đồng, tăng 0,8%; khu vực ngoài nhà nước đạt 11.224,4 tỷ đồng, tăng 12,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 19,9 tỷ đồng, giảm 24,0% so với cùng kỳ năm trước.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý: Trong tháng 6 năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý ước tính đạt 362,0 tỷ đồng, tăng 3,6% so với tháng trước và giảm 10,0% so với cùng kỳ năm trước; Quý II năm 2024 đạt 1.063,6 tỷ đồng, giảm 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý đạt 2.097,0 tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn NSNN cấp tỉnh đạt 1.445,7 tỷ đồng, tăng 0,5%; vốn NSNN cấp huyện đạt 388,5 tỷ đồng, giảm 11,9%; vốn NSNN cấp xã đạt 262,8 tỷ đồng, giảm 16,7% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 7. Vốn đầu tư thuộc nguồn vốn NSNN trên địa bàn tỉnh do địa phương quản lý

Hoạt động thương mại tháng 6/2024 tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá; lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của Nhân dân. Tháng 6 là tháng bước vào mùa du lịch cao điểm, nhu cầu tham quan, vui chơi giải trí và đi lại của người dân tăng cao đã tác động tích cực đến doanh thu hoạt động thương mại và dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Bên cạch đó, nhiều doanh nghiệp có chính sách khuyến mãi, chương trình giảm giá các mặt hàng nhằm kích cầu tiêu dùng; không khí mua sắm, vui chơi tại các siêu thị, trung tâm thương mại trở nên sôi động, nhộn nhịp hơn.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa tháng 6/2024 ước đạt 4.330,5 tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ. Hầu hết các nhóm hàng hóa đều tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 1.611,5 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 10,2% so với cùng kỳ; nhóm may mặc ước đạt 569,6 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng ước đạt 725,1 tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ; nhóm ô tô các loại ước đạt 242,9 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 9,0% so với cùng kỳ; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 416,4 tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ,… Chỉ riêng nhóm vật phẩm văn hóa, giáo dục đạt 31,8 tỷ đồng, giảm 2,5% so với tháng trước (do tháng 6, học sinh đã nghĩ hè) và tăng 15,9% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa ước tính quý II/2024 đạt 12.852,4 tỷ đồng, tăng 0,9% so quý trước và tăng 10,3% so với cùng kỳ, trong đó các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ đó là: Nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 4.804,3 tỷ đồng, tăng 10,8%; nhóm may mặc ước đạt 1.688,8 tỷ đồng, tăng 11,4%; nhóm xăng dầu các loại ước đạt 1.237,3 tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 25.590,9 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ, trong đó các nhóm ngành đều tăng cao so với cùng kỳ. Chiếm tỷ trọng và tăng cao nhất là nhóm lương thực, thực phẩm đạt 9.715,1 tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ, đóng góp tăng cao nhất 4,7 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của tổng mức bán lẻ hàng hóa.

Hình 8. Tổng mức bán lẻ hàng hóa

Sáu tháng đầu năm 2024, hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát triển nhờ sự đóng góp tích cực của ngành Du lịch, đó là thông qua việc tạo ra nhu cầu tiêu dùng ở địa phương. Khách du lịch thường muốn trải nghiệm văn hóa, ẩm thực và sản phẩm địa phương khi họ đến một địa điểm mới, điều này thúc đẩy nhu cầu mua sắm cho các sản phẩm địa phương như đồ thủ công, đặc sản và quà lưu niệm,... Bên cạnh đó các cơ quan chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát, qua đó phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm ở các cơ sở kinh doanh trong việc thực hiện niêm yết giá, kiểm định, ghi nhãn mác; buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại, góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an sinh xã hội.

b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành

Tháng 6/2024, một chuỗi sự kiện du lịch, văn hóa, thể thao hấp dẫn du khách trong và ngoài nước sẽ diễn ra vào mùa cao điểm du lịch hè 2024 nhằm thu hút đông đảo người dân và du khách đến tham quan, trải nghiệm: Chương trình nghệ thuật đặc biệt: “Quảng Bình hành trình khát vọng - phát triển” chào mừng lễ kỷ niệm 420 năm hình thành tỉnh Quảng Bình (1604-2024), 75 năm ngày Quảng quật khởi (15/7/1949-15/7/2024), 35 năm ngày tái lập tỉnh (01/7/1989-01/7/2024); Hội thảo phát triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng Quảng Bình; Tuổi trẻ Quảng Bình đồng hành với du lịch; Khai trương ra mắt các sản phẩm, dịch vụ du lịch mới tại các khu, điểm, sản phẩm du lịch, cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh và các nền tảng số,… Qua đó để tạo ấn tượng và nâng cao thương hiệu điểm đến du lịch Quảng Bình, bước đầu xây dựng sự kiện thường niên tiến tới tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt.

Sáu tháng đầu năm 2024, hoạt động du lịch ghi nhận sự tăng trưởng mạnh. Nhiều hoạt động lễ hội được tổ chức với quy mô lớn và chất lượng dịch vụ tốt để phục vụ du khách và đã đạt được những tín hiệu đáng mừng khi thu hút lượng lớn khách du lịch đến tỉnh. Ngành Du lịch Quảng Bình cũng đã đẩy mạnh và làm tốt công tác quảng bá du lịch địa phương thông qua các nền tảng số với nội dung phong phú, chuyên biệt cho từng thị trường trọng điểm và trên các cơ quan thông tấn, báo chí, phương tiện truyền thông. Vì vậy doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ lưu trú tháng 6/2024 ước đạt 69,3 tỷ đồng, tăng 15,0% so với tháng trước và tăng 22,5% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 183,1 tỷ đồng, tăng 29,6% so với quý trước, tăng 19,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 324,3 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cùng kỳ.

Số lượt khách lưu trú tháng 6/2024 ước đạt 210.636 lượt khách, tăng 16,1% so với tháng trước và tăng 25,5% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 555.516 lượt khách, tăng 32,3% so với quý trước, tăng 18,6% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 975.517 lượt khách, tăng 14,2% so với cùng kỳ.

Ngày khách tháng 6/2024 ước đạt 213.348 ngày khách, tăng 11,7% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 576.596 ngày khách, tăng 30,1% so với quý trước, tăng 13,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1.019.856 ngày khách, tăng 11,3% so với cùng kỳ.

Doanh thu dịch vụ ăn uống tháng 6/2024 ước đạt 426,1 tỷ đồng, tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 1.205,9 tỷ đồng, tăng 19,9% so với quý trước và tăng 13,1% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 2.211,9 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ.

Hình 9. Dịch vụ lưu trú, ăn uống

Doanh thu hoạt động lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 65,5 tỷ đồng, tăng 11,0% so với tháng trước và tăng 33,6% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 179,3 tỷ đồng, tăng 23,0% so với quý trước và tăng 36,0% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 325,1 tỷ đồng, tăng 38,1% so với cùng kỳ.

Số lượt khách du lịch lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 86.604 lượt khách, tăng 11,6% so với tháng trước và tăng 6,6% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 236.310 lượt khách, tăng 27,6% so với quý trước, tăng 8,8% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 421.559 lượt khách, tăng 9,3% so với cùng kỳ.

Số ngày khách du lịch lữ hành tháng 6/2024 ước đạt 97.272 ngày khách, tăng 12,0% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ; quý II/2024 ước đạt 264.744 ngày khách, tăng 29,0% so với quý trước, tăng 10,3% so với cùng kỳ; tính chung 6 tháng đầu năm 2024 đạt 469.950 ngày khách, tăng 10,8% so với cùng kỳ.

Hình 10. Du lịch lữ hành 6 tháng đầu năm 2024.

c) Các ngành kinh doanh dịch vụ

Sáu tháng đầu năm 2024, ngành du lịch phát triển nhanh, theo đó các hoạt động như vui chơi và giải trí được du khách quan tâm sử dụng. Các khu vui chơi giải trí, dịch vụ spa, nhà hàng, quán bar,… thường trở thành điểm đến cho du khách muốn thưởng thức và nghỉ ngơi. Cùng với đó, hoạt động xây dựng đang có nhiều khởi sắc, kéo theo sự phát triển của các dịch vụ khác như: cho thuê máy móc, vệ sinh công trình, sử dụng lao động thời vụ,… do đó doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ 6 tháng đầu năm 2024 tăng trưởng mạnh so với cùng kỳ.

Dự ước doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ tháng 6/2024 đạt 229,4 tỷ đồng, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ. Đa phần các nhóm dịch vụ đều tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản ước đạt 67,4 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 10,6% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ ước đạt 43,9 tỷ đồng, tăng 3,4% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí ước đạt 34,3 tỷ đồng, tăng 3,9% so với tháng trước, tăng 22,5% so với cùng kỳ,… Riêng có 2 nhóm giảm so với tháng trước, cụ thể: nhóm dịch vụ giáo dục và đào tạo ước đạt 4,2 tỷ đồng, giảm 2,0% so với tháng trước (do tháng 6 kết thúc năm học) nhưng tăng 11,8% so với cùng kỳ; nhóm dịch vụ khác ước đạt 43,9 tỷ đồng, giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 7,5% so với cùng kỳ.

Doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ quý II/2024 ước đạt 680,3 tỷ đồng, tăng 2,0% so với quý trước và tăng 9,8% so với cùng kỳ.

Sáu tháng đầu năm 2024, doanh thu các ngành kinh doanh dịch vụ đạt 1.347,0 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Trong đó, các nhóm dịch vụ đều tăng cao từ 7,9%-14,1% so với cùng kỳ, cụ thể: Nhóm dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 8,3% đóng góp tăng 2,4 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,6% đóng góp tăng 1,6 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 11,5% đóng góp tăng 1,6 điểm phần trăm; nhóm dịch vụ khác tăng 12,1% đóng góp tăng 2,5 điểm phần trăm trong tổng số tăng chung của nhóm các ngành kinh doanh dịch vụ.

Hoạt động vận tải tháng 6/2024 tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá, tháng có nhiều sự kiện, lễ hội lớn của tỉnh đã thu hút đông đảo người dân và du khách đến tham quan, trải nghiệm nên nhu cầu đi lại của người dân tăng; bên cạnh đó, vận tải hàng hoá cũng duy trì ổn định đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hoá phục vụ tốt trong mùa du lịch, cũng như nhu cầu vận chuyển nguyên, vật liệu, thiết bị phục vụ cho các dự án, công trình làm cho doanh thu vận tải tăng cao so với cùng kỳ. Ước tính doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát tháng 6/2024 đạt 506,8 tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ. Quý II/2024 ước đạt 1.505,7 tỷ đồng, tăng 3,8% so với quý trước và tăng 14,0% so với cùng kỳ năm trước.Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát đạt 2.957,0 tỷ đồng, tăng 12,4% so với cùng kỳ, trong đó: Vận tải hành khách đạt 511,0 tỷ đồng, tăng 15,8%; vận tải hàng hóa đạt 2.257,0 tỷ đồng, tăng 12,0%; dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính, chuyển phát đạt 189,0 tỷ đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước.

Hình 11. Doanh thu hoạt động vận tải 6 tháng đầu năm 2024

Ước tính tháng 6/2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 3,4 triệu hành khách, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 151,9 triệu hành khách.km, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024, số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 10,0 triệu hành khách, tăng 2,1% so với quý trước và tăng 16,4% so với cùng kỳ; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 452,0 triệu hành khách.km, tăng 2,0% so với quý trước và tăng 16,5% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 19,8 triệu hành khách, tăng 15,8%; số lượt hành khách luân chuyển đạt 895,3 triệu hành khách.km, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính tháng 6/2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 3,3 triệu tấn, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 224,6 triệu tấn.km, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ. Quý II/2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt 9,7 triệu tấn, tăng 4,5% so với quý trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 664,9 triệu tấn.km, tăng 4,0% so với quý trước và tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 18,9 triệu tấn, tăng 11,9% so với cùng kỳ; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 1.304,3 triệu tấn.km, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động khám chữa bệnh trong 6 tháng năm 2024 hầu hết các chỉ tiêu chuyên môn về khám chữa bệnh được thực hiện theo đúng tiến độ. Ngành Y tế tiếp tục duy trì và phát huy tốt hoạt động khám chữa bệnh tại các tuyến, đặc biệt là bệnh viện tuyến huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Sở Y tế; tổ chức phục vụ kịp thời nhu cầu khám chữa bệnh cho Nhân dân. Dự ước 6 tháng đầu năm 2024, các cơ sở y tế nhà nước đã khám chữa bệnh cho 563.034 lượt người; trong đó: tuyến tỉnh 58.117 lượt người, tuyến huyện 244.818 lượt người, tuyến xã 260.099 lượt người.

Tình hình các bệnh truyền nhiễm 6 tháng năm 2024 đều được kiểm soát tốt. Tính từ đầu năm đến ngày 22/5/2024, trên địa bàn tỉnh ghi nhận 171 ca sốt xuất huyết. Ngày 16/5/2024, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành Công văn số 879/UBND-NCVX về việc chủ động triển khai các hoạt động phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn tỉnh. UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về các biện pháp phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm.

Công tác an toàn thực phẩm 6 tháng năm 2024 được chú trọng mạnh mẽ, các cơ quan quản lý nhà nước nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ đúng các quy định vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, giết mổ, chế biến thực phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Tính đến ngày 16/5/2024, trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ ngộ độc và 117 ca ngộ độc thực phẩm nhỏ lẻ, các bệnh nhân đã được nhập viện điều trị kịp thời.

Năm học 2023 - 2024, toàn ngành Giáo dục tiếp tục thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 với chủ đề năm học là: “Đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”; ngành Giáo dục Quảng Bình tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết Đại hội XVII của Đảng bộ tỉnh, các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Trong 6 tháng đầu năm ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã đạt được một số kết quả quan trọng như sau:

Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia: Kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia trung học phổ thông năm học 2023 - 2024, Quảng Bình có 67 học sinh dự thi. Kết quả có 47 học sinh đoạt giải, đạt tỉ lệ 70,15% trên tổng số học sinh dự thi (trong đó: 7 giải Nhì, 17 giải Ba và 23 giải Khuyến khích).

Về kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 9, 12 cấp tỉnh năm học 2023 - 2024: Kết quả thi chọn học sinh giỏi lớp 9 có 419 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 49,01%, trong đó: 21 giải Nhất, 68 giải Nhì, 137 giải Ba, 193 giải Khuyến khích; Kết quả thi chọn học sinh giỏi lớp 12, có 489 học sinh đoạt giải, chiếm tỷ lệ 49%, trong đó: 18 giải Nhất, 84 giải Nhì, 172 giải Ba, 215 giải Khuyến khích.

Thông qua kỳ thi phát hiện những học sinh xuất sắc nhất để tiếp tục bồi dưỡng tham dự kỳ thi học sinh giỏi cấp Quốc gia trong thời gian tới. Thành tích mà các học sinh đạt được, khẳng định quyết tâm lớn của nhà trường trong việc nâng cao chất lượng dạy học, sự nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ thầy cô giáo và học sinh, qua đó làm dày thêm sổ vàng truyền thống học sinh giỏi của các trường, của ngành giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng Bình, hướng đến mục tiêu đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương đất nước.

Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2024 - 2025: Toàn tỉnh có 13.747 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 895 em so với kỳ thi năm trước); trong đó, thi tuyển sinh vào lớp 10 Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp có 780 thí sinh đăng ký dự thi (giảm 26 em so với kỳ thi năm trước), tuyển sinh vào Trường THPT Dân tộc Nội trú có 258 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 50 em so với kỳ thi năm trước). Có 13.663 thí sinh đang học lớp 9 và 86 thí sinh tự do (77 thí sinh tự do trong tỉnh, 9 thí sinh tự do ngoại tỉnh), 196 thí sinh thuộc đối tượng tuyển thẳng.

Về phương thức tuyển sinh vào lớp 10 năm nay giữ ổn định như năm trước (kết hợp thi tuyển với xét tuyển đối với các trường THPT không chuyên và Trường THPT Dân tộc Nội trú; thi tuyển đối với Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp; xét tuyển đối với Trung tâm GDTX tỉnh, các trung tâm GDNN-GDTX). Điểm mới trong công tác tuyển sinh vào lớp 10 THPT năm nay đó là: Tổ chức thi 02 môn Toán, Ngữ văn, thời gian làm bài thi mỗi môn thi là 120 phút; Tuyển sinh vào Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp, không áp dụng miễn thi môn Tiếng Anh (chung) khi thí sinh có các chứng chỉ, không tổ chức tuyển sinh lớp không chuyên, tăng 1 lớp chuyên Văn. Theo kế hoạch kỳ thi diễn ra vào ngày 04/6/2024. Riêng lịch thi vào lớp 10 THPT chuyên Võ Nguyên Giáp tổ chức thi thêm môn chuyên và môn Tiếng Anh vào ngày 05/6/2024.

Kỳ thi THPT Quốc gia năm 2024: Toàn tỉnh có 11.246 thí sinh đăng ký dự thi (tăng 78 thí sinh so với năm 2023), trong đó: 10.856 thí sinh đang học lớp 12 chiếm tỉ lệ 96,54% và 390 thí sinh thí sinh tự do (62 thí sinh tự do chưa tốt nghiệp và 328 thí sinh tự do đã tốt nghiệp) chiếm tỉ lệ 3,46%; 8.886 thí sinh thi để xét tốt nghiệp và đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 79,01%; 2.032 thí sinh thi chỉ để xét tốt nghiệp chiếm tỉ lệ 18,07%; 328 thí sinh thi chỉ để đăng ký xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng chiếm tỉ lệ 2,92%.

Toàn tỉnh tổ chức một Hội đồng thi dành cho tất cả các thí sinh đăng ký dự thi tại tỉnh Quảng Bình do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, dự kiến tổ chức thi tại 30 điểm. Lịch thi sẽ được tổ chức từ ngày 27 - 28/6/2024 (ngày thi dự phòng là 29/6/2024).

Trong năm học 2024, chỉ tiêu tuyển sinh Trường Đại học Quảng Bình 790 chỉ tiêu hệ đại học, cao đẳng chính quy, trong đó: hệ đại học 760 chỉ tiêu; cao đẳng sư phạm 30 chỉ tiêu. Hiện tại, Trường Đại học Quảng Bình tiếp tục thông báo tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm học 2024.

3. Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao

Hoạt động văn hoá, thể thao 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra sôi nổi với các hoạt động chào đón năm mới 2024, tết Nguyên đán Giáp Thìn, các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước như Giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch, 49 năm ngày Giải phóng Miềm nam thống nhất đất nước 30/4 và Quốc tế Lao động 1/5. Trong đó, nổi bật: chương trình “Phong Nha Countdown Party 2024”, Tuần lễ Văn hoá - Thể thao - Du lịch và Hội Rằm tháng 3 âm lịch ở Minh Hoá; Tuần Văn hóa - Du lịch Đồng Hới năm 2024. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao đã tạo không khí tươi mới, phấn khởi trên địa bàn toàn tỉnh trong mỗi dịp kỷ niệm.

Ngày 02/6/2024, tại Quảng trường Hồ Chí Minh đã diễn ra Lễ kỷ niệm 420 năm hình thành tỉnh Quảng Bình (1604 - 2024), 75 năm ngày Quảng Bình quật khởi (15/7/1949 - 15/7/2024) và 35 năm ngày tái lập tỉnh (01/7/1989 - 01/7/2024). Lễ kỷ niệm được tổ chức trang trọng với chương trình nghệ thuật đặc sắc. Chương trình đã thể hiện được niềm tự hào, tri ân sâu sắc đối với các bậc tiền nhân và thế hệ cha ông đã có công xây dựng và gìn giữ quê hương, đất nước; đồng thời khẳng định quyết tâm, bản lĩnh của Đảng bộ, quân và dân Quảng Bình trong giai đoạn phát triển mới.

Thể thao phong trào sôi nổi với các hoạt động thể thao như: giải cầu lông, bóng đá, bóng chuyền; các trò chơi dân gian: kéo co, đánh đu, chơi Hội Bài chòi,...tạo không khí vui tươi cho người dân trong dịp Tết. Giải đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia năm 2024 trên sông Nhật Lệ, giải Marathon khám phá Quảng Bình “Quảng Bình Discovery Marathon” lần thứ IV - 2024 là một trong những giải đấu phong trào đáng chú ý trong 6 tháng đầu năm 2024.

Tính đến hết ngày 19/5/2024, các đội tuyển thể thao thành tích cao Quảng Bình đã thi đấu đạt được 78 huy chương các loại (16HCV; 23HCB; 39HCĐ); trong đó có 5 huy chương quốc tế (3HCV; 1HCB; 1HCĐ)

4. Tình hình trật tự an toàn xã hội

Tình hình trật tự an toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2024 được chú trọng đẩy mạnh. Ngày 15/5/2024, UBND tỉnh ban hành Công văn số 869/UBND-KT về việc tăng cường công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh. UBND yêu cầu các đơn vị, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phục vụ nhu cầu đi lại của Nhân dân. Lũy kế 5 tháng năm 2024, toàn tỉnh đã xảy ra 90 vụ tai nạn giao thông, tăng 54 vụ so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đường bộ 90 vụ tăng 55 vụ, đường sắt không xảy ra giảm 1 vụ, đường thuỷ không xảy ra bằng cùng kỳ. Số người chết do tai nạn giao thông 48 người, tăng 30 người so với cùng kỳ. Số người bị thương do tai nạn giao thông 55 người, tăng 21 người so với cùng kỳ.

Theo báo cáo của Công an tỉnh, tính chung 5 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh đã xảy ra 9 vụ cháy với giá trị thiệt hại tạm ước tính 3.004,88 triệu đồng.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh đã xãy ra 3 vụ lốc xoáy, làm 1 người chết; 10 ngư dân mất tích; 5 nhà bị hư hại; diện tích lúa bị thiệt hại 10 ha, ước tính thiệt hại 54,5 triệu đồng, tăng 8,8% so với cùng kỳ.

6. Tình hình nổi bật khác về xã hội

Từ đầu năm đến nay, dựa trên nhu cầu tìm kiếm việc làm của lao động trong tỉnh, Trung tâm Dịch vụ việc làm (DVVL) Quảng Bình đã liên tục tổ chức các phiên giao dịch nhằm hỗ trợ cho các đơn vị tuyển dụng và lao động cần việc làm có được công việc ổn định, giảm tối đa nạn thất nghiệp, dôi thừa lao động, ảnh hưởng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững toàn tỉnh giai đoạn 2021 - 2025.

Trong bối cảnh thị trường lao động còn nhiều khó khăn, song toàn tỉnh vẫn tích cực giải quyết việc làm cho người lao động. Tính từ đầu năm đến nay, Quảng Bình đã giới thiệu việc làm, cung ứng và tuyển lao động với hơn 8.000 lượt người. Để hỗ trợ người lao động vững vàng phát triển kinh tế từ nghề nghiệp ở nước ngoài, cũng như nâng cao chất lượng nguồn lao động địa phương trên thị trường các nước như Nhật Bản, Đài Loan, đặc biệt là Hàn Quốc, Trung tâm DVVL đã tập trung đào tạo 3 yếu tố quan trọng là tay nghề, vốn ngoại ngữ và ý thức tổ chức kỷ luật. Cùng với việc đào tạo ngoại ngữ, Trung tâm đã tập trung trang bị các kỹ năng nghề cơ bản, đồng thời giáo dục định hướng cho người lao động, chủ yếu là các kiến thức về văn hóa ứng xử, hiểu biết pháp luật,… của nước sở tại.

Với mục tiêu phát triển giáo dục nghề nghiệp nhằm đào tạo nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo, thời gian qua, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh luôn chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển sinh, đào tạo nghề. Một số mô hình hỗ trợ đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp, làng nghề, hợp tác xã theo hình thức liên kết giữa đào tạo nghề với giải quyết việc làm, đào tạo nghề với cung cấp nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm đã mang lại hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm, xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Phấn đấu tuyển sinh, đào tạo nghề cho hơn 17.000 người. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tích cực chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục phát huy ưu thế trong công tác tư vấn, hướng nghiệp phân luồng, tổ chức tư vấn, tuyển sinh trực tuyến và trực tiếp, phấn đấu trong năm 2024 tuyển sinh, đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng cho 17.000 người, trong đó cao đẳng 250 người, trung cấp 1.750 người, với chất lượng đào tạo đạt chuẩn quốc gia, chiếm tỷ lệ 40%; đào tạo sơ cấp và dưới 3 tháng cho 15.000 người, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng cho 5.000 lao động.

Ước tính đến 30/6/2024, có 11.726 lao động được giải quyết việc làm, đạt 60,1% kế hoạch năm, trong đó có 3.611 lao động được tuyển chọn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, đạt 72% kế hoạch năm. Vay vốn giải quyết việc làm đạt 165.388 triệu đồng với 2.979 lượt lao động vay vốn, hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho trên 3.000 lao động.

Từ đầu năm đến nay, trung tâm dịch vụ việc làm tỉnh đã tổ chức 22 phiên giao dịch việc làm; 14.039 lượt người được tư vấn về các vấn đề liên quan đến chế độ chính sách việc làm, học nghề; giới thiệu việc làm, cung ứng và tuyển lao động: 8.607 lượt người; giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng cho 1.384 người; 62 người được hỗ trợ học nghề.

Những năm trở lại đây, tỉnh Quảng Bình luôn chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là định hướng những ngành nghề phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương, đào tạo nghề gắn với sản xuất nông nghiệp. Nhờ vậy, nhiều hộ gia đình, nhất là các hộ nghèo đã chuyển đổi nghề nghiệp, có việc làm ổn định, vươn lên thoát nghèo và làm giàu.

Công tác an sinh, phúc lợi xã hội được đảm bảo, trong đó các đối tượng người cao tuổi, người nghèo, bảo trợ xã hội, người có hoàn cảnh khó khăn luôn được lãnh đạo Tỉnh quan tâm và ưu tiên hàng đầu.

Nhằm truyên tuyền nâng cao nhận thức của người nghèo về các nội dung của Chương trình mục tiêu Quốc gia (MTQG) giảm nghèo giai đoạn 2021 - 2025, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu thuộc Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh. Trong 2 ngày 09/5 và 14/5/2024, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức Hội nghị truyền thông, tuyên truyền Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững năm 2024 cho gần 170 đại biểu là cán bộ phụ trách công tác giảm nghèo các huyện, xã, trưởng thôn/bản, đại diện thành viên của gia đình hộ nghèo, hộ cận nghèo của 2 huyện Minh Hóa và Tuyên Hóa.

Đến thời điểm hiện tại các mục tiêu, nhiệm vụ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững so với kế hoạch đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng lao động tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề dịch vụ, tạo thêm nhiều việc làm mới nhằm giải quyết việc làm cho nhiều lao động, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân; các chế độ chính sách liên quan đến hộ nghèo và chính sách an sinh xã hội thực hiện tốt hơn, nhiều mô hình phát triển sản xuất tại cộng đồng,... được các địa phương quan tâm, hướng dẫn, định hướng cho người nghèo tham gia nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Đặc biệt, đã có sự chuyển biến về nhận thức và hành động của một bộ phận người nghèo, đã xuất hiện một số điển hình làm đơn tự nguyện xin thoát nghèo. Các chương trình, dự án hỗ trợ cho hộ nghèo, người nghèo triển khai thực hiện có hiệu quả, các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ và kịp thời đã giúp cho người nghèo giảm bớt khó khăn, từ đó tạo điều kiện cải thiện cuộc sống người dân. Một số nội dung của Chương trình đã thực sự đi vào cuộc sống, huy động được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp, sự tham gia của các tầng lớp nhân dân và của chính người nghèo. Đời sống của người nghèo, cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển được cải thiện rõ rệt.

Trong quý II/2024, hơn 50 thầy thuốc của bệnh viện tuyến Trung ương tại Hà Nội, Bệnh viện hữu nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cùng các đơn vị y tế địa phương đã khám bệnh tại 2 xã miền núi Lâm Thuỷ (Lệ Thuỷ), Trường Sơn (Quảng Ninh) tham gia chương trình “Khám bệnh vì một Việt Nam khoẻ mạnh hơn” để thăm khám, chăm sóc sức khoẻ, tri ân gia đình có công với cách mạng và người dân có hoàn cảnh khó khăn. Cấp phát thuốc miễn phí, truyền thông giáo dục sức khoẻ cho gần 1.500 người dân là gia đình chính sách, người có công với cách mạng; các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh có hoàn cảnh khó khăn; người cao tuổi có bệnh lý nền, người có hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn,…Cũng trong chương trình, Ban tổ chức đã trao tặng 20 phần quà cho các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật; hỗ trợ 10 ca mổ tim bẩm sinh từ 13 tuổi (trị giá 50 triệu đồng/ca); tặng nước rửa tay và những phần quà cho các trường học trên địa bàn.

Cùng với việc thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách, những năm qua, các cấp, ngành, địa phương trên toàn tỉnh còn tích cực huy động nguồn lực xã hội để chung tay chăm lo, hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn; tăng cường các giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại, tai nạn thương tích cho trẻ. Qua đó, tạo mọi điều kiện, môi trường thuận lợi để trẻ em được học tập, vui chơi, bảo đảm các quyền cơ bản để phát triển toàn diện.

Khái quát lại, Quảng Bình triển khai thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024 bên cạnh những khó khăn, thách thức vẫn có nhiều thuận lợi. Ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, UBND đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, điều hành của Chính phủ về về phát triển KT-XH, khắc phục khó khăn, thách thức, tranh thủ thời cơ, vận hội mới, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh để quyết tâm phấn đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra; thực hiện hiệu quả công tác an sinh xã hội bảo đảm toàn diện, đa tầng, bền vững, phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng GRDP cả năm 2024 đạt 7,0% - 7,5%.

Sáu tháng đầu năm 2024 tỉnh Quảng Bình đã đạt những kết quả đáng ghi nhận: Kinh tế ổn định và tăng trưởng khá, GRDP 6 tháng đầu năm ước tính tăng 6,50%; sản xuất vụ Đông Xuân đạt kết quả tích cực; khai thác thủy sản phát triển ổn định; sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá; du lịch tăng trưởng nhanh; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống văn hóa và tinh thần của người dân tiếp tục được nâng cao; tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội được bảo đảm;...

Trong thời gian tới, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các ngành, các cấp, các địa phương cần triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:

- Tích cực triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp, điều hành của Chính phủ về ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát và đẩy mạnh việc thực hiện các khâu đột phá giai đoạn 2021 - 2025.

- Kế thừa và phát huy những kết quả trong thời gian qua; không chủ quan, tự mãn với thành tích đã đạt được; quán triệt, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực một cách hiệu quả, trước hết là trong hệ thống hành chính nhà nước; kiên quyết ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.

- Tiếp tục thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế. Thực hiện thực chất, hiệu quả cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thúc đẩy kinh tế xanh, bền vững và phát huy tối đa các tiềm năng, lợi thế. Tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai.

- Xây dựng cơ quan hành chính các cấp đoàn kết, thống nhất cao, liêm chính, dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, hành động thiết thực, hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đi đôi với phân bổ nguồn lực, tăng cường giám sát, kiểm tra. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực thi trách nhiệm giải trình, bảo đảm công khai, minh bạch. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự lực, tự cường, đổi mới, sáng tạo; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết liệt, hiệu quả trong hành động.

- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, bảo đảm thượng tôn pháp luật. Nâng cao chất lượng, hiệu quả một số hoạt động hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và thi hành án; chú trọng công tác trợ giúp pháp lý, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

- Thực hiện quyết liệt, hiệu quả hơn nữa các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực theo các Nghị quyết, quy định của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh về phát triển KT-XH 10 năm 2021 - 2030, 5 năm 2021 - 2025, các khâu đột phá giai đoạn 2021 - 2025 của tỉnh về: (1) Phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; (2) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH theo hướng đồng bộ, từng bước hiện đại; (3) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh; (3) Phát triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển KTXH. Chú trọng kiểm soát lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phát triển KT-XH. Tích cực hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh; chủ động xử lý hiệu quả những vấn đề tồn đọng kéo dài.

- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, có tính liên vùng và hạ tầng đô thị. Tiếp tục phát triển hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, hạ tầng thương mại điện tử, hạ tầng nông nghiệp, nông thôn,...

- Quán triệt chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát huy giá trị văn hóa và con người Quảng Bình trở thành nguồn lực, động lực quan trọng trong phát triển KT-XH. Khai thác tối ưu và hợp lý các di sản văn hóa, thiên nhiên, đặc biệt là Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Quan tâm hơn nữa đến công tác an sinh xã hội và đời sống Nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đẩy mạnh việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; bảo đảm mọi người dân đều có cơ hội tham gia và thụ hưởng thành quả phát triển KT-XH. Tăng cường phòng chống thiên tai, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; ổn định chính trị - xã hội và an toàn, an ninh cho Nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội để phát triển KT-XH.

Trên cơ sở các mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, các sở, ngành và địa phương cụ thể hóa các cơ chế, giải pháp, chính sách bảo đảm sự thống nhất về các nguyên tắc, mục tiêu chung, đồng thời phải phù hợp với điều kiện thực tiễn và trình độ phát triển của từng ngành và từng địa phương để thực hiện thành công kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024./.

[1] Nguồn: Công văn số 1028/TCTK-TKQG ngày 29/5/2024 của Tổng cục Thống kê về việc thông báo số liệu GRDP ước tính quý II, 6 tháng đầu năm 2024.

[2] Nguồn: Báo cáo số 272/BC-CNTY ngày 06/6/2024 của Chi cục Chăn nuôi và Thú y

[3] Nguồn: Báo cáo số 588/BC-CCKL ngày 30/5/2024 của Chi cục Kiểm lâm

Tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hải Phòng 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều khởi sắc. Dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, hoạt động sản xuất, kinh doanh dần trở lại bình thường. Nhiều ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như: sản xuất công nghiệp, hàng qua cảng, thu ngân sách, thu hút FDI, thu hút khách du lịch bước đầu phục hồi và tăng trưởng; doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số doanh nghiệp và số vốn đăng ký. Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời, có hiệu quả; tình hình chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của căng thẳng địa chính trị, gián đoạn chuỗi cung ứng trên thế giới làm giá hàng hóa, nguyên vật liệu tăng cao khiến kinh tế Hải Phòng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Kết quả 6 tháng đầu năm 2022 đạt được như sau:

Tổng sản phẩm trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2022 ước tăng 11,10% so với cùng kỳ năm trước (kế hoạch tăng từ 13% trở lên), thấp hơn mức tăng 13,52% của 6 tháng năm 2021,  đứng thứ 7 cả nước và thứ 3 vùng đồng bằng Sông Hồng. Trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,67%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 13,32%, đóng góp 7,27 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 9,05%, đóng góp 3,23 điểm phần trăm.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, mặc dù ngành thủy sản gặp nhiều khó khăn do thức ăn, con giống, chi phí nguyên vật liệu tăng nhưng vẫn là điểm sáng của khu vực này với giá trị tăng thêm tăng 2,05%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành nông nghiệp giảm 0,11%.

Khu vực công nghiệp - xây dựng tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19 làm cho cuỗi cung ứng bị gián đoạn; giá dầu tăng cao, kéo theo chi phí về sản xuất cũng tăng, ngành công nghiệp 6 tháng năm 2022 giá trị tăng thêm tăng 13,91% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 6,83 điểm phần trăm vào tốc độ tăng chung. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 14,17% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 6,54 điểm phần trăm; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng tăng 12,57%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 8%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.

Trong khu vực dịch vụ, ngành thương mại tăng 8,1%, đóng góp 0,5 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi tăng 11,74%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú ăn uống tăng 9%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm, hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 9,38%, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung...

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước tăng 9,82% so với cùng kỳ, đóng góp 0,57 điểm phần trăm trong mức tăng trưởng chung toàn thành phố.

Cơ cấu kinh tế trên địa bàn 6 tháng năm 2022 tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp. Cụ thể: khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm tỷ trọng 4,05%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 53,83%; khu vực dịch vụ chiếm 36,49%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,63%.