Tuyến nước bọt ở động vật có vú thuộc loại tuyến ngoại tiết, có ống tuyến và nang tuyến, vai trò là sản xuất nước bọt. Chúng cũng chế tiết amylase, một enzym cắt tinh bột thành maltose.
Tuyến nước bọt ở động vật có vú thuộc loại tuyến ngoại tiết, có ống tuyến và nang tuyến, vai trò là sản xuất nước bọt. Chúng cũng chế tiết amylase, một enzym cắt tinh bột thành maltose.
Viêm tuyến nước bọt nhẹ có thể không cần uống thuốc, hoặc chỉ cần sử dụng thuốc giảm đau. Các thuốc sử dụng trong viêm tuyến nước bọt bao gồm: thuốc kháng sinh, giảm viêm, giảm đau tuy nhiên cần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Người bệnh không nên tự mua thuốc kháng sinh về uống, hoặc điều trị bằng các loại thuốc không theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Bên cạnh triệu chứng của viêm tuyến nước bọt, quai bị còn có thể gây một số biến chứng khác như viêm tinh hoàn, viêm tụy cấp, viêm cơ tim. Tuy nhiên, viêm tuyến nươc bọt do vi-rút khác và do quai bị có thể khó phân biệt qua khám bệnh. Biểu hiện chung của người bệnh khi bị viêm tuyến nước bọt do vi-rút và quai bị bao gồm sưng vùng tuyến nước bọt, giảm dịch tiết, khít hàm, khó nuốt, sốt… Việc chẩn đoán xác định chỉ được thực hiện bằng xét nghiệm cấy vi-rút. Vấn đề điều trị cũng không khác nhau giữa viêm tuyến nước bọt do vi-rút và do quai bị, trong hầu hết các trường hợp là điều trị hỗ trợ và phòng ngừa biến chứng. Trong thực tế điều trị một bệnh nhân viêm tuyến nước bọt, bác sĩ cần phân biệt giữa viêm tuyến nước bọt do vi-rút và do vi khuẩn để quyết định việc có hoặc không có sử dụng kháng sinh.
Bác sĩ Thuý Hằng cho biết, nếu nhiễm trùng tuyến nước bọt không có biến chứng thì có thể tự khỏi mà không cần dùng thuốc. “Tuy nhiên, đối với trẻ em và trẻ nhỏ, những người có miễn dịch yếu thì bác sĩ khuyến nghị nên đến bệnh viện để thăm khám sớm nhất. Bởi vì ở các đối tượng này, tình trạng nhiễm trùng có thể diễn tiến nặng và có nguy cơ gây ra các biến chứng ảnh hưởng xấu tới sức khỏe như đã nêu ở phần trên”.
Theo bác sĩ Thuý Hằng, đối với việc điều trị viêm tuyến nước bọt nói chung, cần thực hiện trên nguyên tắc giảm đau, kháng viêm, chống nhiễm trùng. Theo đó, các khuyến nghị về điều trị theo từng mức độ viêm cụ thể như sau:
Phương pháp chuẩn đoán tình trạng viêm tuyến nước bọt phổ biến nhất hiện nay bao gồm: siêu âm, chụp CT-scan, MRI, Sinh thiết; nội soi, và cấy mủ từ ống tuyến nước bọt trong trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng tuyến nước bọt.(4)
Sưng do tắc nghẽn ống tuyến nước bọt gây ra các cơn đau liên quan đến ăn hoặc uống thực phẩm gây tăng tiết nước bọt. Để chẩn đoán phân biệt với một số nguyên nhân có thể gây sưng to tuyến nước bọt, bác sĩ có thể sử dụng các xét nghiệm khác bao gồm:
Bệnh quai bị có thể gây viêm tuyến nước bọt, nhất là tuyến nước bọt mang tai. Tuy nhiên, viêm tuyến nước bọt còn có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác. Ví dụ do vi-rút (Virus quai bị, HIV, Coxsackievirus, Parainfluenza loại 1 và 2, Virus herpes, virus cúm A…) hoặc vi khuẩn thường gây viêm tuyến nước bọt là Staphylococcus aureus gây ra, các loại vi khuẩn khác bao gồm vi khuẩn liên cầu, vi khuẩn Coliform…
Tình trạng viêm tuyến nước bọt nếu không điều trị kịp thời có thể gây biến chứng nguy hiểm như:
Sỏi tuyến nước bọt có thể xuất hiện ở mọi độ tuổi và mọi giới tính. Nhưng hầu hết trường hợp thường gặp ở tuổi trung niên, nam giới mắc nhiều hơn nữ giới. Trẻ em hiếm khi có sỏi tuyến nước bọt.
Như đã nói ở phần điều trị, nếu nhiễm trùng tuyến nước bọt không có biến chứng thì có thể tự khỏi mà không cần dùng thuốc. Thông thường tình trạng viêm diễn ra khoảng từ 1-2 tuần sẽ hết.
Sỏi tuyến nước bọt có thể hình thành phổ biến nhất ở tuyến hàm dưới hàm, kế đến là tuyến mang tai và tuyến dưới lưỡi.
Nước bọt bên trong khoang miệng là một hỗn hợp phức tạp bao gồm: chất lỏng từ các tuyến nước bọt, dịch kẽ nướu, vi khuẩn miệng và các mảnh vụn thức ăn. Nước bọt nguyên chất bao gồm: 99% nước và 1% khoáng chất, chất điện giải, chất đệm và enzyme. Vậy nước bọt có enzyme gì? Các enzyme đó đóng vai trò thế nào trong cơ thể?
Đây là enzyme chính của nước bọt, đóng vai trò phân giải carbohydrate (Ví dụ: tinh bột) thành những cấu trúc nhỏ hơn. Sản phẩm cuối cùng của tinh bột nhờ enzyme phân hủy là đường glucose.
Nhờ có enzyme amylase mà quá trình tiêu hoá diễn ra dễ dàng, giúp cơ thể hấp thụ tốt hơn. Sự hòa trộn enzyme trong miệng cũng giúp cho tinh bột không tích tụ trên răng của Quý khách.
Emzyme amylase còn có mặt ở ruột do tuyến tụy tiết ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn.
Cấu trúc phân tử của Enzyme Amylase
Là enzyme đóng vai trò cắt các hợp chất có trong thịt heo, bò… thành những đơn vị nhỏ hơn. Enzyme này thường được sử dụng để sản xuất thuốc giãn mạch dùng trong điều trị cao huyết áp. Do enzyme Kallikrein sẽ chuyển Kininogen thành Bradykinin (một chất làm giãn mạch).
Đây là enzyme giúp phân giải chất béo (lipid) trong mỡ thịt, cá. Enzyme Lingual Lipase đóng vai trò quan trọng đối với trẻ em, giúp bé tiêu hóa được lipit trong sữa mẹ.
Protein được tìm thấy trong nước bọt thông thường là các: peptit, axit nucleic, globulin miễn dịch và hormone. Mặc dù protein chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong nước bọt, nhưng nó lại giữ nhiều vai trò trong tiêu hóa và bảo vệ sức khỏe răng miệng.
Bên cạnh đó, chất nhầy cũng là một loại protein đặc biệt đóng vai trò quan trọng. Chất nhầy giúp cho thức ăn được nhào trộn dễ dàng trong khoang miệng. Đồng thời chất nhầy bôi trơn tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình nuốt thức ăn.
Tên gọi của các tuyến nước bọt chính trong khoang miệng
Các chất điện giải được tìm thấy trong nước bọt bao gồm magie, canxi và kali. Chúng được phân bố rải rác khắp các bộ phận và đóng vai trò quan trọng đối với cơ thể. Một số chức năng cần sử dụng chất điện giải như:
Miễn phí chụp film cùng với máy Conebeam CT trị giá 700K
Miễn phí quét mẫu hàm công nghệ ITERO trị giá 3 triệu
Nước bọt là dịch tiêu hóa đầu tiên tiếp xúc với thức ăn. Vì vậy nước bọt hoạt động hiệu quả thì hệ thống tiêu hóa mới khỏe mạnh.
Trong nước bọt có enzyme gì có thể hỗ trợ cho quá trình tiêu hóa? Enzyme chính tham gia vào quá trình tiêu hoá là Amylase và Lingual Lipase. Chúng giúp cơ thể phân giải một số lipit và các chất carbohydrate, biến chúng thành các loại đường, triglyceride và axit béo có kích thước nhỏ hơn. Qua đó làm giảm bớt gánh nặng cho dạ dày và các cơ quan tiêu hóa tiếp theo. Bên cạnh đó, việc tạo ra đường sẽ giúp tăng tính ngon miệng, kích thích vị giác cho bữa ăn của Quý khách.
Nước bọt còn tạo điều kiện cho quá trình nghiền thức ăn trở nên dễ dàng và trơn tru hơn.
Nước bọt tạo độ ẩm để cân bằng hệ vi sinh vật trong khoang miệng. Nó còn đóng vai trò rửa trôi các mảnh thức ăn thừa, giúp hạn chế tích tụ cao răng, phòng ngừa viêm nhiễm.
Đồng thời, nước bọt cung cấp các chất vô cơ và hữu cơ giúp ngăn chặn sự phát triển của hại khuẩn. Từ đó giúp Quý khách ngăn ngừa sâu răng và các bệnh nhiễm trùng khác. Sự có mặt của nước bọt giúp giữ cho bề mặt răng chắc khỏe bằng cách cung cấp hàm lượng canxi, florua và photphat. Chúng tạo thành lớp phủ trên răng giống như fluorapatite, chống sâu răng tốt hơn cấu trúc răng ban đầu. Đồng thời, nước bọt tạo điều kiện cho quá trình khử khoáng và tái khoáng men răng.
Nước bọt còn có thể cầm máu khi xuất hiện tổn thương bên trong khoang miệng.